Thời gian vừa qua, Cục Phòng vệ thương mại (PVTM – Bộ Công Thương) nhận được thông tin từ Thương vụ Việt Nam tại Philippines về việc Bộ Công Thương Philippines (DTI) tiến hành 2 vụ việc điều tra tự vệ đối với hạt nhựa mật độ cao (HDPE) và hạt nhựa mật độ thấp tuyến tính (LLDPE).
Cụ thể, sản phẩm bị điều tra bao gồm: Hạt nhựa mật độ cao HDPE có mã AHTN 3901.20.00; và hạt nhựa mật độ thấp tuyến tính LLDPE có mã AHTN 3901.10.12; 3901.10.92; 3901.40.00; 3901.90.90. Giai đoạn điều tra từ năm 2015 – 2019.
Ngay sau khi nhận được thông tin, Cục PVTM đã có công văn thông báo với Hiệp hội Nhựa Việt Nam và một số công ty liên quan; đồng thời tổ chức nghiên cứu các thông tin, dữ liệu do DTI cung cấp, đối chiếu với các quy định pháp luật và diễn giải thực tế của WTO để dự thảo các lập luận, phản đối đơn kiện của ngành sản xuất hạt nhựa Philippines.
Ngày 22/9, Cục PVTM đã gửi thư tham vấn tới DTI bày tỏ ý kiến về vụ việc, đồng thời đề nghị DTI loại trừ Việt Nam ra khỏi phạm vi áp dụng của biện pháp tự vệ căn cứ theo quy định tại Hiệp định về các biện pháp tự vệ của WTO.
Theo Cục PVTM, nguyên đơn trong cả 2 vụ việc điều tra tự vệ đối với hạt nhựa do DTI tiến hành là Công ty JG Summit Petrochemical Corporation (JGSPC) đại diện cho ngành sản xuất trong nước. Theo đơn kiện, nguyên đơn cáo buộc việc gia tăng nhập khẩu HDPE và LLDPE vào Philippines đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước của Philippines.
Cụ thể, lượng nhập khẩu HDPE vào Philippines có sự gia tăng tuyệt đối trong giai đoạn điều tra. Cụ thể, lượng nhập khẩu HDPE của quốc gia này trong POI lần lượt là 29,6 nghìn tấn (năm 2015), 83,5 nghìn tấn (năm 2016), 80,6 nghìn tấn (năm 2017), 88,2 nghìn tấn (năm 2018) và 111,1 nghìn tấn (năm 2019).
Trong khi đó, lượng nhập khẩu LLDPE vào Philippines có sự gia tăng tuyệt đối trong giai đoạn điều tra. Cụ thể, lượng nhập khẩu HDPE của quốc gia này trong các năm từ 2015 – 2019 lần lượt là 80.000 tấn (năm 2015), 83.900 tấn (năm 2016), 79.800 tấn (năm 2017), 110.200 tấn (năm 2018) và 120.600 tấn (năm 2019).
Mặt khác, lượng xuất khẩu HDPE của Việt Nam vào Philippines lần lượt là 161 tấn năm 2018 (chiếm 0,18% tổng lượng nhập khẩu) và 24 tấn năm 2019 (chiếm 0,02% tổng lượng nhập khẩu).
Đối với LLDPE, Philippines nhập khẩu từ Việt Nam 198 tấn năm 2015 (chiếm 0,25% tổng lượng nhập khẩu), 74 tấn năm 2016 (chiếm 0,09% tổng lượng nhập khẩu), 50 tấn (chiếm 0,06% tổng lượng nhập khẩu), 85 tấn (chiếm 0,08% tổng lượng nhập khẩu) và 60 tấn (chiếm 0,05% tổng lượng nhập khẩu).
“Xét trong năm gần nhất trong giai đoạn điều tra, chưa cần xét tới tiêu chí loại trừ các nước đang phát triển trong tổng số các nước có có thị phần riêng lẻ dưới 3% có mức nhập khẩu cộng gộp là 6,73% (đối với HDPE) và 3,58% (đối với LLDPE), Việt Nam thỏa mãn điều kiện được loại trừ khỏi vụ việc theo quy định tại Điều 9.1 Hiệp định về các biện pháp tự vệ”, cục PVTM khẳng định.
Bên cạnh đó, để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình, Cục PVTM khuyến nghị Hiệp hội Nhựa Việt Nam và các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu hạt nhựa chủ động theo dõi, cập nhật thông tin vụ việc; và liên hệ và phối hợp chặt chẽ với Cục PVTM để trao đổi thông tin và nhận được sự hỗ trợ kịp thời, đặc biệt trong trường hợp phát sinh các vấn đề bất thường./.