TS. Cấn Văn Lực: Đề xuất hạ lãi suất tiền gửi VND về mức 0%/năm là thiếu cơ sở và không khả thi

Ngày 22/6, Hiệp hội các nhà đầu tư chứng khoán Việt Nam (VAFI) có văn bản gửi Thủ Tướng Chính phủ, Bộ Tài chính, Ngân Hàng Nhà nước, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ban Kinh tế Trung ương đề xuất giải pháp hạ dần lãi suất tiền gửi VND về mức 0%/năm.

Văn bản của VAFI

Trao đổi với báo chí, TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV khẳng định đây là đề xuất thiếu cơ sở và không khả thi.

TS Cấn Văn Lực
TS Cấn Văn Lực

5 lý do chính được chuyên gia này đưa ra là:

Một là, so sánh lãi suất danh nghĩa quốc tế như vậy là khập khiễng bởi lẽ mức độ rủi ro của Việt Nam cao hơn so với đa số các nước trong khu vực, trong mẫu so sánh (thí dụ, Việt nam xếp hạng BB theo S & P (Mỹ) trong khi đó của Indo, Phil là BBB, Thái Lan (BBB+), Malaysia (A-), Trung Quốc (A+), Hàn Quốc (AA), Singapore (AAA)…. Theo quy luật kinh tế – tài chính, rủi ro cao thì lãi suất phải cao hơn (để bù đắp rủi ro đó). Vì thế, hiện nay DN Việt Nam đi vay vốn nước ngoài bằng USD trung hạn (1-5 năm), bên cho vay hoặc mua trái phiếu thường yêu cầu lãi suất USD từ 3-6%/năm, tùy thuộc vào thời hạn và mức độ rủi ro, tiềm năng của DN đó cũng như bản thân dự án đầu tư. Ta nên lưu ý rằng, khi các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế (như S & P, Moody’s) xếp hạng mỗi quốc gia hay doanh nghiệp tại quốc gia đó, họ đã tính đến hầu hết các tiêu chí mà Đề xuất đã nêu như chính trị ổn định, tăng trưởng kinh tế, ổn định vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế, hệ thống tài chính – ngân hàng, tiềm lực trả nợ….

Hai là, lạm phát Việt Nam ta cao hơn nhiều so với quốc tế và khu vực. Năm 2020 chẳng hạn, CPI của Việt Nam là 3,2% trong khi toàn cầu là 2%, Trung Quốc 2,5% và ASEAN-4 là 1%. Năm nay, dự báo lạm phát của Việt Nam có thể khoảng 3,5%, trong khi toàn cầu khoảng 2,8%, Trung Quốc 1,8% và ASEAN-4 khoảng 2%. Chính vì vậy, người dân có kỳ vọng gửi tiền vào ngân hàng, được hưởng lãi suất ít nhất là cao hơn tỷ lệ lạm phát để hưởng lãi suất dương, không bị “mất tiền” một cách vô hình. Đó cũng là tâm lý rất đời thường và hợp lý của người dân.

Ba là, giả sử ta đưa được lãi suất tiền gửi VND là 0% trong khi lạm phát vẫn khoảng 3,5%, liệu người dân có mặn mà gửi tiền vào ngân hàng? Trong khi có nhiều kênh đầu tư khác hấp dẫn hơn. Khi đó, hệ thống ngân hàng thiếu tiền gửi, vừa hứng chịu rủi ro thanh khoản, vừa không có đủ tiền để đáp ứng nhu cầu tín dụng của nền kinh tế. Vậy thì, hệ thống tài chính – tín dụng có thể bị rối loạn và doanh nghiệp thiếu vốn đầu tư kinh doanh, lấy đâu ra nguồn lực để tăng trưởng, để bảo đảm công ăn việc làm…v.v. Theo tính toán của chúng tôi, dòng vốn tín dụng hiện nay chiếm khoảng gần 50% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, huy động qua thị trường chứng khoán (TTCK) khoảng gần 20%, còn lại là vốn FDI, đầu tư công và đầu tư tư nhân…v.v.

Bốn là, lãi suất tiền gửi quá thấp, người dân, DN sẽ mang tiền đi đầu tư vào những kênh khác như bất động sản, chứng khoán, vàng, tiền kỹ thuật số….vừa rủi ro hơn lại vừa thiếu vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, tiêu dùng.

Năm là, giả sử dòng tiền đó chảy vào chứng khoán, khi đó DN huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu, do không có tài sản đảm bảo, chủ yếu là tín chấp, DN sẽ phải trả lãi suất khá cao (như hiện nay lãi suất trái phiếu DN khoảng 10-12%/năm, thường cao hơn so với đi vay ngân hàng khoảng 1-3%/năm). Như vậy, liệu đây có phải là bài toán huy động vốn hiệu quả cho DN? Chưa kể là, nếu DN đó chẳng may phá sản, nhà đầu tư trái phiếu gần như mất trắng vì không có tài sản đảm bảo, không có bảo hiểm tiền gửi như khi gửi tiền vào ngân hàng. Chưa kể, như trên tôi có nêu cấu trúc huy động vốn, hiện nay huy động vốn của DN từ kênh TTCK vẫn chỉ chiếm khoảng 20%.

“Tôi nghĩ, đề xuất giải pháp đột phá lúc này là rất quý, song cũng cần tính toán với cơ sở vững chắc, sát thực tiễn và khả thi hơn…”- TS Cấn Văm Lực thẳng thắn..

Theo Thanh Thanh/Chất lượng&Cuộc sống